Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố Báo cáo Môi trường kinh doanh năm 2020 (Doing Business 2020). Trong 190 nền kinh tế được đánh giá, Việt Nam đạt 69,8 điểm trên 100, cao hơn năm ngoái (68,36), nhưng lại tụt một bậc xuống thứ 70. Xu hướng xếp hạng Theo Báo cáo Môi trường kinh doanh năm 2020, Singapore tiếp tục giữ vị trí thứ hai về Môi trường kinh doanh trong năm thứ tư liên tiếp. Hồng Kông cũng nằm trong top 10 nền kinh tế thế giới, giữ vị trí thứ ba. Có 5 nền kinh tế khu vực Đông Á–Thái Bình Dương thuộc top 25 nền kinh tế thế giới và thứ hạng của khu vực đạt thứ 96. Trung Quốc là một trong 10 nền kinh tế cải thiện nhiều nhất trong năm 2019. Các nền kinh tế được xếp hạng thấp nhất trong khu vực là Kiribati (164), Myanmar (165) và Đông Timo (181). Thứ hạng của các nền kinh tế lớn khác trong khu vực lần lượt là Indonesia (73), Philippines (95), Thái Lan (21), Malaysia (12) và Việt Nam (70). Năm ngoái, Việt Nam đứng 69/190. Các nền kinh tế khu vực Đông Á–Thái Bình Dương đạt các điểm khá cao về tiếp cận tín dụng (với thứ hạng trung bình của khu vực là 82), tiếp cận điện năng (83) và cấp phép xây dựng (84). Cụ thể, ở khu vực Đông Á–Thái Bình Dương, để hoàn thành các thủ tục cấp nối điện mất trung bình 63 ngày với chi phí bằng 594,6% thu nhập bình quân đầu người, trong khi chỉ số này trên cả thế giới là 83 ngày và 1.049,8%. Những lĩnh vực còn nhiều yếu kém là giải quyết tranh chấp hợp đồng (xếp thứ 105), giải quyết phá sản doanh nghiệp (105) và giao dịch thương mại qua biên giới (103). Các chỉ số này cho thấy khoảng cách khác biệt lớn giữa các nền kinh tế trong khu vực. Ví dụ ở Myanmar phải mất tới 1.160 ngày để giải quyết tranh chấp thương mại (xếp thứ 187 về Giải quyết Tranh chấp Hợp đồng) với chi phí bằng 110,3% mức phí được áp dụng ở Papua New Guinea (173).
Việt Nam xếp thứ 70 toàn cầu về môi trường kinh doanh. Ảnh minh họa
Tốc độ cải cách môi trường kinh doanh ở khu vực Đông Á-Thái Bình Dương chậm lại Theo dữ liệu của World Bank, trong năm vừa qua, các nền kinh tế khu vực Đông Á–Thái Bình Dương đã tiến hành 33 chương trình cải cách về môi trường kinh doanh. Mặc dù nhiều nền kinh tế trong khu vực được đánh giá có môi trường thuận lợi hơn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ so với mặt bằng chung thế giới nhưng xét về tổng thể tốc độ cải cách đang chậm lại. Số cải cách trong khu vực đã giảm đi 10 cải cách trong vòng 12 tháng qua tính đến ngày 1/5 và chưa tới một nửa số nền kinh tế (12 trên 25) có thực hiện cải cách. Mặc dù vậy, trong số 25 nền kinh tế đứng đầu thế giới về môi trường kinh doanh vẫn có 5 đại diện của khu vực Đông Á–Thái Bình Dương, bao gồm: Singapore (thứ 2), Hồng Kông SAR, Trung Quốc (thứ 3); Malaysia (thứ 12); Đài Loan, Trung Quốc (thứ 15); và Thái Lan (thứ 21). Đây là năm thứ hai liên tiếp Trung Quốc nằm trong top 10 nền kinh tế cải thiện nhiều nhất. Bà Rita Ramalho, Giám đốc Cấp cao Nhóm Chỉ số Toàn cầu Ngân hàng Thế giới, cho biết “Những động lực cải cách ở khu vực Đông Á–Thái Bình Dương tiếp tục được duy trì, trong đó có một số quốc gia đạt những thành tích nổi bật như Trung Quốc. Cải cách liên tục là chìa khóa để cải thiện môi trường kinh doanh trong nước và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân”. Theo WB, với 8 cải cách, Trung Quốc đã cải thiện quy định trong hầu hết các lĩnh vực được đánh giá trong Báo cáo Môi trường Kinh doanh và là nền kinh tế thực hiện nhiều cải cách nhất trong khu vực. Indonesia và Myanmar đã thực hiện 5 cải cách, đa phần đều liên quan đến ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Cụ thể: Indonesia bắt đầu áp dụng hệ thống nộp đơn và thanh toán trực tuyến đối với các loại thuế phổ biến và triển khai hệ thống quản lý hồ sơ điện tử cho thẩm phán. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cũng tăng cường xử lý trực tuyến tờ khai hải quan xuất khẩu, giảm thời gian hoàn thành thủ tục xuất khẩu tại cửa khẩu thêm 7 giờ. Trong khi đó, Myanmar tăng cường kiểm soát chất lượng xây dựng, cải thiện cơ sở hạ tầng nước sạch vệ sinh và tăng cường hiệu quả quy trình xin cấp phép xây dựng, đưa nước này lên vị trí thứ 46 về chỉ số cấp phép xây dựng. Ngoài ra, Myanmar cũng bắt đầu công bố các báo cáo đo lường hiệu suất để giảm tranh chấp hợp đồng và áp dụng đăng ký doanh nghiệp trực tuyến. Với 3 lĩnh vực cải cách trong năm qua, Philippines tiếp tục giữ vững đà phát triển. Một trong số những cải cách đã được thực hiện là xóa bỏ yêu cầu vốn tối thiểu đối với các doanh nghiệp trong nước. Quốc gia này cũng đơn giản hóa quy trình cấp giấy chứng nhận sử dụng đất. Brunei, Lào, Papua New Guinea và Việt Nam đều tiến hành 2 cải cách. Brunei bắt đầu công bố các báo cáo đo lường hiệu suất của Tòa phúc thẩm Bandar Seri Begawan. Trong khi đó, Lào đã cải thiện chỉ số tiếp cận điện năng thông qua việc triển khai hệ thống Kiểm soát giám sát và thu thập dữ liệu tự động (SCADA) nhằm theo dõi tình trạng mất điện và khôi phục kết nối. Việt Nam nâng cấp hạ tầng thông tin của Tổng cục Thuế, hỗ trợ doanh nghiệp nộp thuế dễ dàng hơn. Nhìn chung, các nền kinh tế trong khu vực đều tập trung cải cách lĩnh vực cấp phép xây dựng với 7 cải cách và khởi sự kinh doanh với 5 cải cách. Theo đánh giá của WB, các nền kinh tế Đông Á–Thái Bình Dương đạt kết quả tương đối tốt trong các chỉ số tiếp cận tín dụng, tiếp cận điện năng và cấp phép xây dựng. Thủ tục cấp nối điện cho một cơ sở mới xây dựng trong khu vực này là 63 ngày, ít hơn gần 12 ngày so với mức trung bình của các nền kinh tế OECD. Tương tự, quy trình cấp phép xây dựng ở các quốc gia Đông Á–Thái Bình Dương ngắn hơn 20 ngày so với các nền kinh tế OECD. Tuy nhiên, khu vực này vẫn còn ghi nhận nhiều yếu kém trong một số lĩnh vực như giải quyết tranh chấp hợp đồng, đây là lĩnh vực cần áp dụng các thông lệ quốc tế bao gồm các hệ thống thay thế giúp giải quyết tranh chấp và thành lập các tòa án thương mại chuyên biệt. Giải quyết tranh chấp thương mại thông qua tòa án sơ thẩm địa phương có chi phí trung bình lên tới 47,2% giá trị khiếu nại, cao hơn gấp đôi mức trung bình là 21,5% của các nền kinh tế OECD.